Hiển thị các bài đăng có nhãn Sống Khoẻ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Sống Khoẻ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 2 tháng 6, 2012

4 loại nước không nên uống khi thức dậy

Khi thức dậy, có những loại nước bạn không nên uống.

Nước muối
Một số người nghĩ rằng uống nước muối loãng vào buổi sáng tốt cho sức khỏe nhưng đây là suy nghĩ sai lầm.
Nước muối, uống vào mùa hè khi mồ hôi ra nhiều là cần thiết, nhưng uống vào buổi sáng không mang lại lơi ích gì mà còn nguy hại cho sức khỏe.
Theo nghiên cứu, sau một đêm dài, cơ thể mất nhiều nước, nếu uống thêm nước muối loãng vào buổi sáng chỉ càng làm khô miệng và mất nước hơn. Hơn nữa, uống nước muối buổi sáng nguy hiểm cho những ai bị huyết áp cao.
Nước để quá lâu
Nước uống sau khi đun xong cũng chỉ uống trong thời gian ngắn, nếu để tuần này qua tuần khác các chất nitơ trong nước chuyển thành nitrite. Ngoài ra, khi để lâu không tránh khỏi sự xâm nhập vi khuẩn ô nhiễm, càng đẩy nhanh tiến độ phân hủy các chất hữu cơ có chứa nitơ, nitrit.
Sau khi uống nước này, nitrite và hemoglobin sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của oxy trong máu.
Vì vậy, nước để trong phích vài ngày, một số dư lượng trong nước thay đổi. Tốt nhất không nên để quá 24 giờ.
Ngoài ra, nước đóng chai, nước tinh khiết, nước khoáng sau khi mở ba ngày cũng không nên uống.

Uống nước có ga vào lúc sáng sớm có thể gây thiếu hụt canxi (ảnh minh họa)

Nước có ga, có tính kích thích
Buổi sáng sau khi thức dậy, không nên uống nước quả đóng hộp, coca cola, nước ngọt, cà phê, trà… . Nước giải khát có ga và nước coca cola có chứa acid citric làm tăng tốc độ bài tiết canxi làm canxi trong máu thấp hơn. Nếu duy trì thói quen này có thể gây ra thiếu hụt canxi.
Nước trái cây, cà phê cũng hạn chế uống vào buổi sáng sớm, vì các chất này không thể bổ sung nước khi cơ thể đang thiếu hụt mà còn gây hại cho đường tiêu hóa.
Uống nước trực tiếp từ vòi
Dù là nước máy, nhưng không nên lấy nước trực tiếp từ vòi để uống vào buổi sáng, vì vẫn còn ô nhiễm và dư lượng vi sinh vật có thể ẩn một mối đe dọa đối với sức khỏe con người, gây bệnh viêm đường hô hấp cấp tính.

Nguồn: EVA.VN ngày 1/6/2012

Thứ Năm, 31 tháng 5, 2012

Bia không làm nên bụng

SGTT.VN - Những người uống bia thường xuyên nhưng không lạm dụng, sẽ không bị to bụng như lâu nay nhiều người vẫn lầm tưởng, theo một nghiên cứu công bố trên tạp chí về dinh dưỡng European Journal of Clinical Nutrition. Các nghiên cứu gần đây cho thấy người uống dưới nửa lít bia mỗi ngày sẽ không tăng cân, với điều kiện đương nhiên là có một chế độ dinh dưỡng cân đối. Ngược lại, thức uống này sẽ tạo điều kiện tích tụ mỡ trong toàn cơ thể.
Một nghiên cứu trên 20.000 người trong 8,5 năm cho phép kết luận hầu như không có mối quan hệ nào giữa việc to bụng và uống bia. Ảnh TL
Những nhà nghiên cứu Thuỵ Điển, thuộc đại học Göteborg, đã muốn đánh giá các tác dụng của bia đối với những dân uống bia thường xuyên tại nước này. Một nghiên cứu được thực hiện trên khoảng 20.000 người tình nguyện, gần 7.900 đàn ông và 12.700 đàn bà. Họ chấp nhận được theo dõi trong suốt tám năm rưỡi và được phân thành nhiều nhóm, tuỳ theo mức tiêu thụ của họ. Thể trọng, vòng cơ thể và vòng đùi của họ được đo thường xuyên. Điều đó cho phép kết luận hầu như không có mối quan hệ nào giữa việc to bụng và uống bia.

Nhưng bia đem lại nhiều lợi ích. Uống bia với liều lượng hợp lý có thể giảm các nguy cơ đái tháo đường và tăng huyết áp. Bởi vì thức uống này gồm acid folic, sắt và calci có tác dụng bảo vệ hệ thống tim mạch. Chính vì thế bia cũng có lợi cho cơ thể không kém rượu vang uống với lượng vừa phải, theo các nhà khoa hoạ Tây Ban Nha. Với điều kiện là áp dụng một chế độ dinh dưỡng giàu cá, trái cây, rau và dầu ôliu và vận động cơ thể thường xuyên.

Một lít bia để chống lại loãng xương

Bia là một nguồn cung silicium lý tưởng. Mà hợp chất này giữ vai trò trọng yếu trong việc làm chắc xương, nhất là sau thời kỳ “giã biệt kinh kì”. Ảnh Trần Việt Đức
Theo một chuyên gia, tiêu thụ bia vừa phải kết hợp với những dưỡng chất có lợi tốt cho sức khoẻ. Bia không làm tăng cân vì không chứa chất béo và không quá nhiều năng lượng.

Những nghiên cứu khác chỉ ra rằng bia có thể có tác dụng bảo vệ đối với tiểu đường típ 2 (do béo phì). Uống bia vừa phải cũng làm giảm nguy cơ ung thư ruột kết (nhưng mới chỉ thấy kết quả trên chuột), nhờ bia có chứa chất chống oxy hoá. Một nghiên cứu khác, được công bố hồi tháng 10, kết luận rằng phụ nữ có thể tự vệ khỏi loãng xương nếu uống khoảng một lít bia mỗi ngày. Công trình này chứng minh rằng bia là một nguồn cung silicium lý tưởng. Mà hợp chất này giữ vai trò trọng yếu trong việc làm chắc xương, nhất là sau thời kỳ “giã biệt kinh kì”.

Tuy nhiên, đó là bia ở xứ người, còn bia ở xứ ta có vậy không khi ngày càng tìm không thấy mùi vị của hoa bia, ngày càng có vị ngọt? Đó là chưa kể Heneiken sản xuất tại Bình Chánh, hoặc bên kia biên giới phía bắc, tạo lợi nhuận khổng lồ cho các nhà hàng, quán sá hắc ám.
Nguồn: SGTT ngày 31/5/2012

Thứ Hai, 28 tháng 5, 2012

Trẻ Chậm Nói

Chậm nói đơn thuần là chứng suy giảm ngôn ngữ và khả năng phát triển ngôn ngữ ở trẻ em khá phổ biến hiện nay.



Tuy không liên quan đến việc chậm phát triển trí tuệ nhưng không ít bậc phụ huynh thật sự lo lắng bởi không rõ nguyên nhân, chữa trị làm sao? Và sau này trẻ có thể nói bình thường  không?

Nhận biết

Khác với việc chậm nói của hội chứng tự kỷ, trẻ chậm nói đơn thuần có thể hiểu lời nói và thực hiện được một số mệnh lệnh đơn giản của người lớn. Trẻ mắc chứng chậm nói có nhiều biểu hiện khác nhau. Có trẻ chỉ phát ra những tiếng vô nghĩa, lặp đi lặp lại không dứt và không thể nói một số từ đơn giản. Có trẻ phát âm rõ ràng nhưng chỉ nói những từ đơn, không có khả năng ghép hai từ hoặc hơn hai từ với nhau. Trẻ thường nói những từ đơn để bày tỏ nhu cầu và đối với một số từ ghép hai từ, trẻ chỉ nói được từ cuối của từ đó, thường gọi là kiểu nói vuốt đuôi.

Một số trẻ phát âm không rõ ràng nhưng lại có khả năng sử dụng từ và các cụm từ để diễn đạt thông tin giao tiếp, chẳng hạn như dùng ngôn ngữ một cách chính xác, gọi tên được nhu cầu, cảm xúc để người lớn đáp ứng,

Có trẻ phát âm tốt, nói được những câu tương đối dài nhưng lại không thể hiểu ngôn ngữ để trả lời hoặc đáp ứng mệnh lệnh của người lớn. Trẻ em có thể đọc một đoạn thoại quảng cáo khá dài trên tivi, nói lại những câu nói mà người lớn chỉ dẫn khá chính xác, rõ ràng. Tuy nhiên, đó chỉ là khả năng nói một cách máy móc, tư duy về ngôn ngữ của trẻ không phát triển. Trẻ không có khả năng trả lời câu hỏi của người khác mà chỉ lặp lại câu hỏi một cách máy móc hoặc lặng im không đáp.

Can thiệp

Ngoại trừ những trường hợp trẻ chậm nói có nguyên nhân xuất phát từ những thương tổn thực thể như mất thính lực, dị tật cơ quan phát âm, chậm phát triển tâm thần ở những trường hợp khác, các bậc phụ huynh đều cố đi tìm  câu trả lời cho việc chậm nói của con mình. Nhiều người tỏ ra ân hận và tự dằn vặt mình rồi dằn vặt nhau vì đã không để ý đầy đủ đến con: cho trẻ chơi một mình, giao con cho người giúp việc giữ, xa lánh, hắt hủi con, gia đình bất hoà làm tổn thương tâm lý trẻ... Đó không hẳn là những nguyên nhân khiến trẻ chậm nói mà chỉ là các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển ngôn ngữ của trẻ. Các chuyên gia khuyên các bậc phụ huynh nên giúp trẻ tìm thấy ngôn ngữ hơn là việc tìm nguyên nhân của hiện tượng này để rồi lại hoang mang khi việc tìm hiểu ấy chệch hướng.

Hiện nay can thiệp đặc biệt là một biện pháp hiệu quả nhất trong việc điều trị chứng chậm nói ở trẻ em. Người ta cũng đang tiến hành tìm hiểu và áp dụng phương pháp PECS - hệ thống các phương tiện giao tiếp qua hình ảnh - để giúp những đối tượng gặp khó khăn trong việc sử dụng ngôn ngữ và giao tiếp.

Các bậc phụ huynh góp phần rất lớn trong việc can thiệp với trẻ chậm nói. Nhiều phụ huynh vẫn chưa hợp tác tốt với chuyên viên can thiệp trong việc điều trị ngôn ngữ cho trẻ, không quan tâm và phó mặc trẻ cho chuyên viên can thiệp. Cũng có phụ huynh quá bao bọc trẻ, không để trẻ tiếp xúc với môi trường xung quanh và tỏ ra e dè khi để trẻ ra môi trường bên ngoài mà không có mình. Đặc biệt, không ít phụ huynh tạo ra áp lực cho chuyên viên can thiệp, cho trẻ và cho bản thân khi đặt ra yêu cầu là trong một thời gian ngắn, trẻ có thể học phát âm và nói được như trẻ bình thường.

Can thiệp với trẻ chậm nói đòi hỏi một thời gian lâu dài, kiên trì và có sự hợp tác tốt giữa giáo viên và phụ huynh. Không phép mầu nào có thể xảy ra nếu không có sự nổ lực không mệt mỏi của cả chuyên viên can thiệp lẫn các bậc phụ huynh.

ThS Lê Minh Công
Nguồn: Tuổi Trẻ ngày 17/4/2012

Ăn Chay Giảm Bệnh

Tỉ lệ bệnh đái tháo đường và béo phì đang tăng lên nhanh chóng. Nhận thức được những bệnh này liên quan mật thiết với chế độ ăn uống, một số người chuyển sang ăn chay với hi vọng giảm bệnh hoặc ít ra là hỗ trợ điều trị.


Có hai câu hỏi liên quan giữa ăn chay và đái tháo đường được đặt ra: một là ăn chay và ăn thường, chế độ ăn nào có tỉ lệ mắc bệnh đái tháo đường cao hơn? Hai là ăn chay giúp ích gì trong điều trị bệnh đái tháo đường?
Lợi ích
Nguyên từ khái niệm ban đầu, thức ăn chay (ăn trai) tức thực phẩm chỉ toàn thực vật - dạng ăn chay của người theo đạo Phật, tránh sát sinh - ngược với ăn mặn (ăn mạng sống). Nhưng dần dà khi số người ăn chay nhiều lên, thức ăn chay cũng linh hoạt cho phù hợp thực tế với mục đích chính là để thay đổi khẩu vị, bảo vệ sức khỏe hơn là tránh sát sinh. Thức ăn chay hiện nay phong phú hơn nguyên mẫu ban đầu nhiều, có đến bốn nhóm được xếp loại: (1) chay tuyệt đối hoàn toàn thực vật, (2) chay có sữa, (3) chay có sữa và trứng và (4) chay linh hoạt hay chay tương đối cho phép ăn thêm thịt, cá...
Theo nguyên lý cơ bản của dinh dưỡng học, khẩu phần ăn hợp lý phải có đầy đủ bốn thành phần là đạm, bột đường, béo, chất khoáng và vitamin. Do đó việc chuyển đổi từ một chế độ ăn bình thường sang ăn chay nói chung là được phép, hợp dinh dưỡng. Thức ăn chay có một số ưu điểm hơn thức ăn nguồn gốc động vật: ít chất béo có hại như cholesterol và các axít béo no (bão hòa), nhiều axít béo chưa no, axít béo nhiều nối đôi, nhiều vitamin E, C, A... giúp cơ thể chống oxy hóa.
Đái tháo đường là căn bệnh rối loạn chuyển hóa chất bột đường với hậu quả là đường glucose trong máu tăng cao, đái tháo đường lại liên quan mật thiết đến bệnh thừa cân, béo phì và tăng huyết áp. Do đó có thể nói ăn chay đúng cách cũng là một chế độ ăn hợp lý, “tuyệt vời” cho người bệnh đái tháo đường, vừa dinh dưỡng vừa hỗ trợ điều trị.
Một công trình khoa học lớn, nghiêm túc năm 2006 ở Hoa Kỳ cho thấy đến 43% bệnh nhân đái tháo đường type 2 khi chuyển sang chế độ ăn chay tuyệt đối đều có giảm lượng thuốc men điều trị và giảm cân. Trong thức ăn chay thực vật nhờ có nhiều chất xơ, chất sợi, nhiều khoáng và vitamin... nên có thêm khả năng giảm các biến chứng của đái tháo đường, đặc biệt biến chứng tim mạch và thận.
Ăn “đúng sách”
Ba điều cần lưu ý khi ăn chay:
- Một là thức ăn chay chỉ đóng vai trò thực phẩm hỗ trợ hay thực phẩm chức năng, không phải là thuốc nên không thể thay thuốc chữa bệnh.
- Hai là khi ăn chay cơ thể có nguy cơ thiếu một số chất vi lượng cần thiết như vitamin B12, (vitamin này có nguồn chính từ động vật), thiếu vitamin D và canxi (rất cần cho trẻ con đang lớn và người già, người loãng xương), thiếu chất sắt và kẽm (các axít phytic, oxalic, tannic... trong thực vật sẽ ngăn cản sự hấp thu sắt). Người ăn chay dễ dàng khắc phục bằng cách dùng nhóm thực phẩm chay có trứng sữa, các thực phẩm chay linh hoạt hoặc bổ sung các vitamin và khoáng chất này.
- Ba là nếu chúng ta cứ chú tâm ăn chay tuyệt đối, tránh sát sinh, với thực phẩm hoàn toàn là chất đường bột, cơ thể sẽ không thích ứng được với chế độ ăn “méo mó” này và bệnh đái tháo đường tăng lên. GS.TS Nguyễn Hải Thủy và cộng sự nghiên cứu trên 328 nhà tu hành đạo Phật, những vị này ăn trường chay, loại chay tuyệt đối (vegans) với những thức ăn toàn thực vật như ngũ cốc, đậu phụ, các loại rau, trái cây, nấm... thấy tỉ lệ bệnh đái tháo đường ở các nhà tu hành này cao gấp hai lần người bình thường. Kết quả được giải thích: do chế độ ăn chay không cân đối, toàn thực vật, không kiêng giảm chất đường bột là nguyên nhân gốc rễ gây ra bệnh đái tháo đường.
Ăn chay đúng cách, đúng phương pháp cũng là chế độ ăn tốt, góp phần trong việc ngừa và chữa bệnh dinh dưỡng như: thừa cân, béo phì, đái tháo đường, tăng huyết áp... Nhưng nếu không lưu ý bổ sung những khiếm khuyết của khẩu phần chay, hoặc máy móc ăn toàn thực vật chắc chắn sẽ có những điều bất lợi cho sức khỏe.
TS.BS TRẦN BÁ THOẠI 
(Bệnh viện Hoàn Mỹ Đà Nẵng)
Nguồn: Tuổi trẻ ngày 19/4/2012

Thứ Năm, 26 tháng 4, 2012

Đói Vi Chất

Nhiều người chủ yếu chỉ ăn đủ bột - đường - béo - đạm mà ít quan tâm đến vi chất, cho đến khi phát hiện mình thiếu thì đến lúc đổ bệnh.


Rau, củ, quả... chứa nhiều vi chất.
Một nghịch lý là người ta có thể ăn no bụng, no về mặt năng lượng nhưng chưa đủ về mặt chất lượng, vi chất, chưa đủ những chất tuy rất nhỏ nhưng lại có tác dụng rất lớn. Tình trạng xảy ra ở tỷ lệ cao trong cộng đồng nên được gọi ví von là nạn đói. Nhưng nạn đói này xảy ra không hẳn do thiếu lương thực mà chủ yếu do thiếu kiến thức dẫn đến thiếu thói quen đúng trong ăn uống.

Chiếc đũa thần

Vi chất là gì? Vi chất bao gồm tất cả các vitamin và vài loại khoáng chất mà cơ thể chúng ta cần với một lượng rất ít, nhưng rất quan trọng đối với cơ thể. những vi chất thường gặp bao gồm vitamin A, vitamin D, kẽm, sắt, i-ốt, selenium... Vi chất được Tổ chức Y tế Thế giới ví như chiếc đũa thần vì chúng là những chất xúc tác cần thiết giúp cơ thể sản xuất ra các loại men, nội tiết tố và những hóa chất thiết yếu khác giúp cơ thể hoạt động mỗi ngày, tăng trưởng và phát triển.

Tại sao "tiềm ẩn"?

Được gọi là đói tiềm ẩn vì chúng ta không cảm nhận được thiếu vi chất khi chúng ta vẫn no và ngon miệng. Nhưng quan trọng hơn cho đặc tính tiềm ẩn là một số vấn đề sức khỏe xảy ra do thiếu vi chất đặc biệt mà người ta không hay biết, nhất là khi tình trạng thiếu ở mức độ trung bình và nhẹ.

Nếu trước đây thiếu vitamin A nặng dẫn đến loét giác mạc, thiếu i ốt nặng dẫn đến bướu cổ thì quá rõ ràng nhưng ngày nay ít gặp hơn. Tuy nhiên ít gặp không có nghĩa là không còn tình trạng thiếu vi chất, mà tình trạng thiếu nhẹ hơn và không còn biểu hiện lâm sàng rầm rộ (trong y học gọi là thiếu vi chất tiền lâm sàng). Thiếu vi chất tiền lâm sàng được chứng minh là góp phần dẫn đến bốn hậu quả sức khỏe nghiêm trọng: một là liên quan đến xương (thấp lùn, loãng xương), hai là liên quan đến sức đề kháng (hay bị bệnh), ba là liên quan đến trí tuệ và bốn là liên quan đến tai biến sản khoa (thai lưu, sinh non, sinh con nhẹ cân). Nhiều người từng vấp phải một trong bốn vấn đề trên nhưng ít nghĩ đến thiếu vi chất, lại đổ lỗi do nguyên nhân khác hoặc không rõ nguyên nhân.

Ai cần lưu tâm hơn?

Thiếu vi chất thường gặp ở các đối tượng có gia tăng nhu cầu vi chất gồm trẻ em, phụ nữ mang thai, phụ nữ cho con bú... và tất cả những ai có chế độ ăn không đầy đủ cân bằng.

Thiếu vi chất thường xảy ra đặc biệt ở các đối tượng không đủ chi phí hoặc không muốn hoặc không thể sử dụng nguồn thực phẩm giàu vi chất đó là rau, trái cây và nguồn đạm động vật (thịt, cá, trứng, sữa...). Điều này xảy ra ở những gia đình có thu nhập thấp, sống vùng nông thôn, vùng núi, hải đảo; các đối tượng ăn chay, ăn kiêng, biếng ăn, hay bệnh lý liên quan đến đường tiêu hóa không thể tiêu thụ thực phẩm đa dạng.

Phải bổ sung "vi chất" công bằng

Tức là tất cả các vi chất đều có tầm quan trọng như nhau nên chú ý đến vai trò của tất cả và chú ý bổ sung đầy đủ. Thực tế một số vi chất hoặc đa khoáng chất thường được quan tâm bổ sung nhiều hơn, một số khác bị "quên" đi cũng dẫn đến kết quả không mong muốn. Một ví dụ điển hình là trường hợp người dân than phiền tại sao con tôi uống nhiều sữa mà vẫn không cao, hoặc tại sao tôi uống sữa nhiều mà vẫn bị loãng xương. Trong hai ví dụ trên, đối tượng chỉ chú ý đến canxi mà quên mất các vi chất và khoáng chất khác như vitamin D, magie, kẽm... cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình kiến tạo xương.

Xu hướng tương lai: sử dụng thêm thực phẩm bổ sung vi chất

Để cải thiện tình trạng đói vi chất, chúng ta cần ăn nhiều thực phẩm chứa nhiều vi chất bao gồm rau, củ, quả và chất đạm có nguồn gốc động vật (thịt, cá, trứng...).

Tiêu thụ thực phẩm đa dạng là biện pháp cơ bản nhất. Ngoài ra cũng có một cách để đảm bảo đủ vi chất đó là sử dụng các loại thực phẩm được bổ sung vi chất. Việc bổ sung này là cần thiết đặc biệt đối với một số loại vi chất mà chế độ ăn uống thông thường  không đủ cung cấp, ví dụ như bổ dung i-ốt vào muối.

Thời gian qua, ngành dinh dưỡng cả nước cũng đã tham gia các hoạt động bổ sung vi chất vào một số thực phẩm phổ biến trong cộng đồng, như bổ sung i-ốt vào muối, hạt nêm, nước mắm; bổ sung sắt vào bột dinh dưỡng trẻ em, vào nước mắm, vào mì gói; bổ sung vitamin A vào đường cát, dầu ăn... Phương pháp này có lợi điểm là tiếp cận với số đông người dân, giá thành thấp, tự nhiên. Những sản phẩm bổ sung vi chất hứa hẹn nhiều tiềm năng góp phần vào công cuộc phòng chống nạn đói vi chất tiềm ẩn tại nước ta.

ThS.BS Trần Quốc Cường
(Trung tâm Dinh dưỡng TP. HCM)

Nguồn: Tuổi Trẻ ngày 26/4/2012




Thứ Bảy, 14 tháng 4, 2012

Công Dụng Của Sữa Chua





- Giúp giữ gìn eo thon: Sữa chua có chứa nhiều canxi giúp cơ thể đốt cháy mỡ thừa nhanh hơn.
- Bảo vệ hệ tiêu hóa: Mỗi ngày 2 hộp sữa chua giúp cung cấp vi khuẩn có lợi, tạo sự cân bằng cho vi khuẩn trong đường ruột, giảm vi khuẩn có hại.
- Giúp ăn ngon miệng: Vitamin B trong sữa chua giúp kích thích vị giác, tăng cảm giác ngon miệng. với trẻ nhỏ, sữa chua có tác dụng tiêu hóa đường lactose giúp trẻ dung nạp thức ăn tốt hơn.
- Tăng cường hệ miễn dịch: Sữa chua giúp hạn chế các bệnh về hô hấp liên qua tới virus. Ngoài ra, sữa chua còn cung cấp các vi khuẩn có lợi giúp ngăn ngừa chứng viêm loét dạ dày.
- Hạn chế sâu răng: Sữa chua cung cấp canxi cho răng chắc khỏe và  giúp vệ sinh răng miệng, chống lại vi khuẩn có mùi.
- Giúp xương chắc khỏe: Canxi trong sữa chua giúp ngăn ngừa loãng xương.
- Tăng cường tuổi thọ: Nghiên cứu gần đây cho thấy những người sử dụng sữa chua đều đặn có tuổi thọ cao hơn so với người bình thường. Ngoài ra, sữa chua còn giúp hạn chế mầm mống gây ung thư.
- Cung cấp độ ẩm cho da: Trộn sữa chua và mật ong đắp mặt một tuần 2 lần giúp da thêm mềm mại, mượt mà.
- Điều trị da nhờn, mụn: Nhỏ vài giọt chanh vào sữa chua và đắp mặt sẽ giúp giảm mụn, khiến làn da sáng mịn hơn.
- Làm trắng da: Sử dụng mặt nạ sữa chua và nước cam thoa lên mặt 15 phút và rửa lại với nước ấm giúp da trắng lên một cách từ từ.
- Giảm vết thâm: Xay nát một củ cà rốt, trộn thêm sữa chua và đắp mặt tuần 2 lần sẽ giúp da sáng đẹp, giảm vết thâm.
- Phục hồi tóc hư tổn: Trộn sữa chua và lòng đỏ trứng gà, vài giọt oliu ủ tóc trong 20 phút và xả lại với nước ấm sẽ thấy tóc bóng đẹp. Nếu không có thời gian, bạn có thể sử dụng sữa chua để xả tóc cũng có tác dụng rất tốt.
- Trị gàu: Thoa trực tiếp sữa chua vào chân tóc sau khi gội đầu, ủ trong 20 phút và xả lại với nước.
- Tẩy trang: Thoa sữa chua lên mặt, mát xa trong vòng 15 phút giúp tẩy sạch bụi bẩn và làn da tươi sáng hơn.
- Dưỡng móng: Nếu móng tay bạn yếu và hay bị gẫy hãy mát xa hai bàn tay và móng với sữa chua có nhỏ thêm vài giọt chanh giúp móng tay mạnh khỏe và sáng đẹp hơn.
Nguồn:www.tinmoi.vn

Thứ Hai, 5 tháng 3, 2012

Phòng Bệnh Sỏi Thận Trong Ăn Uống

Sỏi thận là một bệnh khá phổ biến, ở tuổi trưởng thành, có 10% nam giới và 3% nữ giới mắc phải bệnh sỏi thận. Có nhiều loại, trong đó thường gặp nhất (80 – 90%) là sỏi canxi, kế đến là sỏi struvit, sỏi acid uric, sỏi cystin. Biểu hiện thường gặp của sỏi thận là tiểu ra máu, dễ bị nhiễm trùng đường tiểu và đau mạn sườn (khi hòn sỏi di chuyển). Sỏi thận cũng có thể được phát hiện bất ngờ qua chụp X quang kiểm tra.
Sỏi thận tạo ra khi nồng độ của một trong những chất hoà tan trong nước tiểu cao hơn bình thường và đạt đến mức mà chất này có thể kết tinh lại được. Có nhiều cách để phòng ngừa sỏi thận, trong đó điều tiết lại thực đơn ăn uống hàng ngày được xem là biện pháp hiệu quả nhất. Để làm được điều đó, mỗi người phải có ý chí bởi không dễ gì “đoạn tuyệt” được những món ăn ưa thích như cá khô, thịt khô, tôm khô, lạp xưởng, các loại mắm, lòng heo, lòng bò, sôcôla… Khi đứng trước hai lựa chọn, bớt ăn những món ưa thích để bảo vệ thận không bị sỏi và ăn cho đã miệng để rồi phải nhập viện mổ sạn thận thì thiết nghĩ lựa chọn thứ nhất bao giờ cũng là khôn ngoan hơn cả.

Uống nhiều nước: đây là cách phòng ngừa sỏi thận hiệu quả, an toàn và rẻ tiền nhất. Mùa hè khí hậu nóng, người dễ đổ mồ hôi, nước tiểu cô đặc lại, dễ tạo sỏi nên cần uống nhiều nước để nước tiểu loãng ra. Mỗi ngày nên uống khoảng từ 2,5 –  3 lít nước lọc hoặc ăn uống làm sao để có lượng nước tiểu đạt được trên 2,5 lít trong một ngày.

Hạn chế thực phẩm có nhiều chất oxalat: như bia đen, trà đen, sôcôla, đậu nành, đậu phộng, củ cải, cà rốt, táo, mận, dừa, dứa, đào, hành tây.

Ăn lạt, ăn ít thịt động vật: không nên ăn mặn, ăn nhiều thịt. Thực phẩm chứa nhiều muối và nhiều chất đạm sẽ làm giảm độ pH nước tiểu, kích thích bài tiết chất calcium và cystine, gây ra sỏi. Ngoài ra chúng còn làm giảm bài tiết chất citrat, là chất giúp ngăn chặn sự tạo thành sỏi.

Uống nhiều nước cam, chanh tươi: hai loại thức uống này có chứa nhiều citrat, là chất giúp chống lại sự tạo thành sỏi trong cơ thể.

Ăn nhiều rau tươi: chất xơ của rau sẽ giúp tiêu hoá nhanh, tránh ứ đọng trong ruột, giảm thiểu sự tái hấp thụ chất oxalat từ ruột để tạo nên sỏi niệu. Ngoài ra, chất kiềm cung cấp bởi rau tươi sẽ gia tăng sự bài tiết chất citrat chống lại sỏi thận.

Tránh ăn nhiều thực phẩm chứa chất purine: vì dễ gây ra sỏi niệu như cá khô, thịt khô, mắm, lòng bò, lòng heo...

Ăn nhiều thực phẩm có chứa chất calcium: sữa tươi chứa nhiều calcium. Mỗi ngày có thể dùng khoảng ba ly sữa tươi hoặc một số lượng tương đương các sản phẩm từ sữa như bơ, phômai... Không nên kiêng cữ quá mức những thực phẩm chứa calcium vì như thế sẽ gây ra mất cân bằng trong hấp thụ calcium, khiến cơ thể tái hấp thụ nhiều hơn chất oxalat từ ruột và tạo ra sỏi thận. Người ta tin rằng lượng calcium ăn vào khoảng 800 –  1.300mg mỗi ngày sẽ giúp làm giảm bài tiết chất oxalat trong nước tiểu. Tuy nhiên cần nhớ, chỉ có chất calcium chứa trong thực phẩm mới có giá trị, thuốc men có chứa calcium không giúp ích gì trong việc tránh sự tạo thành sỏi thận.

Làm gì khi bị sỏi thận ?
Trước tiên phải đi khám, thực hiện các xét nghiệm đo nồng độ calcium, phosphor và acid uric trong huyết thanh; nồng độ creatinine, calcium, phosphor, acid uric và oxalat trong nước tiểu 24 giờ. Nếu phát hiện có sỏi, bác sĩ sẽ có chỉ định điều trị phù hợp. Nếu sỏi nhỏ hơn 4 - 5mm, có thể tự ra theo nước tiểu mà không cần điều trị (chỉ cần uống nhiều nước). Với sỏi thận gây nhiễm trùng hoặc bế tắc, tuỳ vị trí bác sĩ có những phương pháp điều trị khác nhau: mổ hở, tán sỏi ngoài cơ thể, lấy sỏi qua da, tán sỏi qua nội soi…
Bệnh sỏi thận thường hay tái phát. Khi tái phát việc điều trị sẽ khó khăn hơn. Vì vậy, dù đã bị sỏi hay chưa, cũng cần chú ý đến thực phẩm, cách ăn uống để tránh sự tạo nên sỏi. Với bệnh nhân đã được điều trị sỏi, nên tái khám để làm thêm các xét nghiệm máu và nước tiểu xem có bất thường gì không để điều trị thêm.
Nguồn: http://chuatribenhsoithan.blogspot.com/2011/03/phong-benh-soi-than-trong-cach-uong.html

Thứ Sáu, 2 tháng 3, 2012

Sỏi Thận: Nguyên Nhân, Triệu Chứng & Cách Điều Trị

Nguyên nhân gây ra sỏi thận:
_Sỏi thận được tạo thành bởi muối và chất khoáng trong nước tiểu kết lại với nhau tạo thành những "hòn sỏi" nhỏ.
_Quá trình hình thành sỏi trải qua 3 giai đoạn: tạo nhân, dính các phân tử vào thượng bì đường niệu đạo và lắng đọng to dần thành sỏi.
_Điều kiện thuận lợi cho việc hình thành sỏi là do lượng nước tiểu quá ít bị cô đặc lại, hoặc nồng độ các chất khoáng (canxi, oxalat, nuối urat, natri, cystine, phốt pho) tăng cao. Các chất này lắng đọng  lại trong đài, bể thận và kết thành sỏi thận.
_Ngoài ra sỏi thận có thể là một bệnh di truyền. Nếu những người khác trong gia đình bạn mắc bệnh này thì bạn cũng có nguy cơ bị mắc bệnh.
Triệu chứng của sỏi thận:
Sỏi thận thường không gây đau đớn gì khi chúng còn ở trong thận. Nhưng chúng có thể gây ra những cơn đau đột ngột, dữ dội khi chúng di chuyển từ thận đến bàng quang. Người bị sỏi thận thường có các triệu chứng sau:
_Khi đi tiểu bị rắt, buốt, tiểu ra mủ. Nước tiểu đục hoặc có màu hồng đỏ.
_Có những cơn đau âm ỉ hoặc dữ dội xuất phát từ niệu quản lan theo đường đi của niệu quản xuống gò mu hoặc xuyên cả ra hông, lưng. Có khi buồn nôn và nôn.
_Bị sốt cao, rét run kèm theo với triệu chứng đau hông, lưng, đái buốt, đái rắt, đái mủ là dấu hiệu của viêm thận - bể thận cấp.
_Đái tắt từng lúc hoặc tắt đái hoàn toàn.
Cách điều trị:
Có 4 loại sỏi thận chính
_ Sỏi canxi: Chiếm 80-90%. Lượng canxi thừa trong cơ thể được đào thải qua thận, nếu nồng độ quá nhiều, khó hòa tan hết trong nước tiểu, nó sẽ kết hợp với các khoáng chất khác tạo thành sỏi. Những người có lượng vitamin D cao, bị cường tuyến giáp, hay những người bị suy thận dễ bị sỏi canxi.
_ Sỏi phosphat ammonium magnesium: Do vi khuẩn lên men urê gây nên, thường hình thành sau khi bị viêm đường tiết niệu mạn tính do tăng lượng amoniac trong nước tiểu. Amoniac nồng độ cao làm vi khuẩn phát triển nhanh hơn, khiến sỏi khuẩn hình thành. Sỏi này thường có nhiều cạnh nhọn, kích thước lớn làm tổn thương thận.
_ Sỏi acid uric: Hình thành do quá nhiều axit uric trong nước tiểu. Người ăn nhiều đạm động vật, người bị bệnh gút có nguy cơ sỏi urat cao.
_ Sỏi cystine: Ít gặp, hay xảy ra ở người bị bệnh xistine niệu, khiến thận không hấp thu lại xistine (một loại amino acid). Chất này không được hòa tan tốt trong nước tiểu, khi nồng độ cao sẽ tạo thành sỏi.
Để điều trị một cách hiệu quả cần phải xác định loại sỏi. Có thể loại trừ sỏi thận nhỏ mà không cần phẫu thuật bằng cách uống trên 2 lít nước mỗi ngày để sỏi tự ra ngoài theo đường tiểu. Ở các cơ sở y tế, các bác sỹ có thể áp dụng các biện pháp như:
_ Tán sỏi ngoài cơ thể: Với sỏi đài bể thận đường kính dưới 20 mm, có thể dùng năng lượng siêu âm chiếu qua da vào các viên sỏi để phá vỡ chúng. Sóng siêu âm tán viên sỏi ra thành nhiều mảnh nhỏ đường kính dưới 4 mm để nó tự ra ngoài qua đường tiểu.
_ Tán sỏi qua da: Đưa một máy tán sỏi qua da vùng thắt lưng vào thận. Viên sỏi sẽ bị tán vỡ nhờ sóng siêu âm và hút ra ngoài qua ống. Cách này có thể tán được những sỏi lớn, rắn ngay trong bể thận đã giãn rộng, có thể rửa sạch, lấy hết cặn sỏi và dẫn lưu bể thận qua da.
_ Phẫu thuật: Áp dụng khi sỏi lớn đường kính trên 40 mm, sỏi san hô nhiều gai cạnh găm vào đài bể thận, đài bể thận giãn hay ứ nước...
Hơn 50% số người từng bị sỏi thận sẽ bị tái phát. Do đó dù đã điều trị, bệnh nhân vẫn cần:
- Uống 2-3 lít nước mỗi ngày.
- Giảm lượng thức ăn giàu oxalat, canxi như các loại quả hạnh nhân, sô cô la, nước chè, rau chân vịt, dâu tây. Ăn ít chất đạm động vật nếu bị sỏi acid uric.
- Uống một số loại thuốc giúp kiểm soát lượng khoáng chất phát triển trong nước tiểu.
- Người bị sỏi thận do tuyến giáp tiết ra nhiều hoóc môn cần điều trị triệt để bằng phẫu thuật tuyến giáp.


Nguồn: Tổng hợp từ trang web: chuatribenhsoithan.blogspot - http://chuatribenhsoithan.blogspot.com/2011/03/hieu-them-ve-benh-soi-than.html

Thứ Hai, 13 tháng 2, 2012

Tác dụng của mồ hôi?

Cuộc sống hiện đại làm cho con người trở nên sống vội vàng và gấp hơn hơn, không còn thời gian để vận động và luyện tập. Ngày nay, con người cũng không còn phải làm những công việc năng nhọc thay vào đó là máy móc, rô-bốt… Điều này đã làm cho con người không còn đổ mồ hôi trong các công việc. Tuy nhiên, khi cơ thể không ra mồ hôi, nó có thể dẫn đến một loạt các bệnh.
Vậy, mồ hôi của con người nó có tác dụng gì?Mồ hôi là hệ thống làm mát của cơ thể khi nó trở nên quá nóng, như lúc bị sốt, tập luyện, làm việc nặng nhọc hay ăn uống đồ cay nóng. Mồ hôi chủ yếu là sự kết hợp của muối và một lượng nhỏ “chất thải” được tiết qua những tuyến mồ hôi nhỏ li ti trên bề mặt da. Khi mồ hôi đọng trên bề mặt da và bắt đầu bốc hơi, nó sẽ làm mát cơ thể.

Đẩy lùi ung thư

Theo một công trình nghiên cứu của bác sĩ Ernst, một chuyên gia về giáo dục thể chất người Đức thì ông không phát hiện thấy vận động viên chạy marathon nào bị mắc bệnh ung thư.

Khi phân tích mồ hôi của họ, ông phát hiện nó có chứa cadmium, chì và nikel. Từ đó, bác sĩ Ernst kết luận rằng, những vận động viên này đã tiết ra khỏi cơ thể những chất có thể gây ung thư tiềm tàng nêu trên. Ông và các nhà khoa học khác cũng kết luận rằng, một người đổ mồ hôi ít nhất một lần/ngày sẽ duy trì sức được khỏe tốt.

Loại bỏ căng thẳng

Mồ hôi có thể không trực tiếp làm giảm căng thẳng hay giúp tinh thần sảng khoái, tuy nhiên, khi làm tăng nhiệt độ cơ thể bằng làm việc tay chân, tập luyện hoặc xông hơi, nó có tác động tích cực đối với thinh thần và sự căng thẳng.

 Endorphine và các chất hóa học khác được phóng ra trong quá trình vận động của cơ thể. Hơn nữa, làm nóng các cơ trên cơ thể bằng nhiều phương pháp khác nhau cũng giúp cơ thả lỏng, từ đó hạ thấp mức độ căng thẳng.

Tốt cho da


Da đẹp một phần là nhờ chế độ ăn uống hợp lý và thường xuyên luyện tập. Tuy nhiên, mồ hôi cũng góp phần làm đẹp da. Lý do là trong giọt mồ hôi có chứa một lượng nhỏ chất kháng sinh mà có thể chống lại một số vi khuẩn có hại trên da.

Mồ hôi cũng giúp khơi thông các lỗ chân lông từ đó giúp da sáng sủa và mịn màng. Mồ hôi đổ ra nhiều cũng có tác dụng làm chậm quá trình lão hóa và làm giảm những tác động làm tổn thương tới da.

Thực ra, mồ hôi không có mùi khó chịu, chỉ khi nó ra khỏi cơ thể và gặp phản ứng với vi khuẩn trên bề mặt da hay trong không khí thì mới có mùi hôi. Do vậy, sau khi mồ hôi đã ra hết, bạn cần tắm rửa hoặc lau đi.

Làm sạch cơ thể

Mồ hôi ra nhiều giúp làm sạch cơ thể và loại bỏ các tế bào đã chết. Quá trình đổ mồ hôi cũng giúp cải thiện tuần hoàn máu nhờ sự giản nở của các mao mạch. Đẩy các độc tố ra khỏi máu và chống lại các bệnh ở máu. Mồ hôi chảy ra cũng giúp bạn loại bỏ được một số độc tố khỏi cơ thể như nikel, kẽm và ammoniac, hóa chất và các chất khoáng thừa mà cơ thể đã hấp thụ từ trong môi trường và qua ăn uống.

Chống huyết áp


Cao huyết áp là hiện tượng do mạch máu bị co lại, làm cho lượng máu lưu thông bị giảm đột ngột. Điều này có thể làm tổn thương đến mạch máu và những cơ quan khác trong cơ thể. Tuy nhiên, khi vận động ra mồ hôi, nó sẽ giúp giãn nở mao mạch, giúp máu lưu thông đều đặn và tăng thêm tính đàn hồi cho thành động mạch. Kết quả là giúp làm giảm huyết áp.

Tăng cường tiêu hóa


Theo các chuyên gia, khi mồ hôi bị “tắc” và không thoát ra ngoài được, khí huyết sẽ vận hành chậm từ đó mà ảnh hưởng đến hệ tiêu hóa, làm cho bạn cảm thấy ăn không ngon miệng và khó tiêu. Ngoài ra,  nó còn ảnh hưởng đến tinh thần và ngủ không ngon giấc.

Mồ hôi giúp giảm cân

Chúng ta biết rằng, tập luyện thể dục thể thao là tốt cho cơ thể và giúp giảm cân. Bên cạnh lợi ích của tập luyện, đổ mồ hôi cũng có tác dụng hỗ trợ giảm cân. Khi cơ thể được hâm nóng qua tập luyện, mỡ trong cơ thể sẽ bão hòa với nước và thoát ra khỏi cơ thể qua mồ hôi. Và bạn sẽ ngạc nhiên khi biết rằng, mồ hôi có thể tiêu hủy 300 calo mỗi tiếng đồng hồ.

Làm dịu cơn đau


Mồ hôi chảy ra làm giãn mạch máu, từ đó mà làm dịu cơn đau và đẩy nhanh quá trình làm lành sự bong gân, chứng viêm túi thanh mạc và đau khớp. Thường xuyên giúp cơ thể toát ra mồ hôi cũng giúp bạn nhanh lành hơn các vết thương sau khi phẫu thuật, bỏng.

Giúp xương chắc khỏe

Theo các chuyên gia y học lâm sàng ở Bệnh viên Bắc Kinh, Trung Quốc thì chỉ có vitamin tan trong nước mới có thể làm mất đi theo dịch mồ hôi. Canxi mặc dù tan trong nước nhưng độ hòa tan rất thấp nên không theo mồ hôi thoát ra ngoài. Ngược lại, nếu chủ động ra mồ hôi, nó sẽ giúp bạn lưu giữ canxi trong cơ thể và giúp xương chắc khỏe hơn.

Ngọc Huế (Tổng hợp)

Nguồn: Vietnam Net ngày 10/2/2012

Chủ Nhật, 12 tháng 2, 2012

Thực Phẩm Phòng Chống Bệnh Cao Huyết Áp

Khi bị cao huyết áp, ngoài thuốc ra, việc lựa chọn và duy trì một chế độ ăn khôn ngoan và thích hợp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên, bên cạnh vấn đề tuân thủ những nguyên tắc chung như ăn nhạt, hạn chế mỡ động vật, kiêng các chất kích thích..., người bệnh nhiều khi tỏ ra lúng túng khi chọn dùng các đồ ăn thức uống cụ thể trong sinh hoạt thường nhật. Trên cơ sở kết hợp kinh nghiệm và kết quả nghiên cứu của dinh dưỡng học cổ truyền và hiện đại, bài viết này xin được giới thiệu một số thực phẩm thích hợp và có lợi cho việc phòng chống cao huyết áp để độc giả tham khảo và vận dụng.

1. Cần tây:

Có tên khoa học là Apium graveolens L., dùng thứ càng tươi càng tốt, rửa thật sạch, giã nát rồi ép lấy nước (nếu có máy ép thì càng tốt), chế thêm một chút mật ong, mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 40ml. Nghiên cứu hiện đại cho thấy, nước ép cần tây có tác dụng làm giãn mạch, lợi niệu và hạ huyết áp. Cần chú ý tránh nhầm lẫn với loại cần ta thường dùng làm rau ăn hàng ngày, có tên khoa học là Oenanthe stolinefera Wall.

2. Cải cúc:


Là loại rau thông dụng, có hương thơm đặc biệt, chứa nhiều acid amin và tinh dầu, có tác dụng làm thanh sáng đầu óc và giáng áp. Nên dùng làm rau ăn hàng ngày hoặc ép lấy nước cốt uống, mỗi ngày chừng 50ml, chia 2 lần sáng, chiều. Đặc biệt thích hợp với những người bị cao huyết áp có kèm theo đau và nặng đầu.

3. Rau muống:




Còn gọi là ung thái, không tâm thái, đằng đằng thái..., chứa nhiều canxi, rất có lợi cho việc duy trì áp lực thẩm thấu của thành mạch và huyết áp trong giới hạn bình thường, là thứ rau đặc biệt thích hợp cho những người bị cao huyết áp có kèm theo triệu chứng đau đầu.

4. Măng lau:




Có công dụng hoạt huyết, thông tràng vị, khai hung cách (làm thoải mái lồng ngực) và chống phiền khát. Nghiên cứu hiện đại cho thấy, măng lau có khả năng tiêu trừ mệt mỏi, tăng cường thể lực, làm giãn mạch, cường tim, lợi niệu, giáng áp và phòng chống ung thư, là thức ăn rất thích hợp cho người bị cao huyết áp và xơ vữa động mạch.

5. Cà chua:



Có công dụng thanh nhiệt giải độc, lương huyết bình can và giáng áp. Là thực phẩm rất giàu vitamin C và P, nếu ăn thường xuyên mỗi ngày 1- 2 quả cà chua sống sẽ có khả năng phòng chống cao huyết áp rất tốt, đặc biệt là khi có biến chứng xuất huyết đáy mắt.

6. Cà rốt:



Có tác dụng làm mềm thành mạch, điều chỉnh rối loạn lipid máu và ổn định huyết áp. Nên dùng dạng tươi, rửa sạch, ép lấy nước uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần chừng 50ml. Đây là thứ nước giải khát đặc biệt tốt cho những người bị cao huyết áp có kèm theo tình trạng đau đầu, chóng mặt.

7. Cà:



Đặc biệt cà tím là thực phẩm rất giàu vitamin P, giúp cho thành mạch máu được mềm mại, dự phòng tích cực tình trạng rối loạn vi tuần hoàn hay gặp ở những người bị cao huyết áp và các bệnh lý tim mạch khác.

8. Hành tây:


 Trong thành phần không chứa chất béo, có khả năng làm giảm sức cản ngoại vi, đối kháng với tác dụng làm tăng huyết áp của Catecholamine, duy trì sự ổn định của quá trình bài tiết muối Natri trong cơ thể nên làm giảm huyết áp. Ngoài ra, vỏ hành tây còn chứa nhiều Rutin rất có lợi cho việc làm vững bền thành mạch, dự phòng tai biến xuất huyết não.

9. Nấm hương và nấm rơm:


Nấm rơm
Nấm hương

Là những thực phẩm giàu chất dinh dưỡng nhưng lại có khả năng phòng chống vữa xơ động mạch và hạ huyết áp, rất thích hợp cho những người bị cao huyết áp vào mùa hè thu.

9. Mộc nhĩ:


Mộc nhĩ đen hay mộc nhĩ trắng đều là những thực phẩm rất có lợi cho người bị cao huyết áp. Hàng ngày có thể dùng mộc nhĩ trắng 10g hoặc mộc nhĩ đen 6g, đem nấu nhừ rồi chế thêm 10g đường phèn ăn trong ngày. Khi có biến chứng xuất huyết đáy mắt thì đây là loại thức ăn lý tưởng.

10. Tỏi:


Có công dụng hạ mỡ máu và hạ huyết áp. Hàng ngày nếu kiên trì ăn đều đặn 2 tép tỏi sống hoặc đã ngâm dấm, hay uống 5ml dấm ngâm tỏi thì có thể duy trì huyết áp ổn định ở mức bình thường.

11. Lạc:


Có công dụng hạ mỡ máu và giáng áp. Kinh nghiệm dân gian Trung Quốc dùng lạc ngâm với dấm ăn, sau chừng 5 ngày thì dùng được, mỗi ngày ăn 2 lần, mỗi lần 10 hạt.

12. Hải tảo, hải đới và tảo đỏ:


Đều là những thực phẩm ở biển. Có công dụng phòng chống vữa xơ động mạch và hạ huyết áp. Có thể dùng phối hợp cả ba thứ cùng một lúc hoặc thay thế nhau.

13. Đậu Hà Lan và đậu xanh:

Đậu Hà Lan

Là hai loại thực phẩm rất có lợi cho người bị cao huyết áp. Hàng ngày nên dùng giá đậu Hà Lan 1 nắm rửa sạch rồi ép lấy nước uống hoặc dùng làm rau ăn thường xuyên. Kinh nghiệm dân gian thường dùng đậu xanh hầm với hải đới ăn hoặc đậu xanh và vừng đen sao thơm, tán bột ăn mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 50g để phòng chống cao huyết áp.

14. Sữa đậu nành:


Là đồ uống lý tưởng cho người bị cao huyết áp, có công dụng phòng chống vữa xơ động mạch, điều chỉnh rối loạn lipid máu và giáng áp. Mỗi ngày nên dùng 1.000ml sữa đậu nành pha với 100g đường trắng, chia uống vài lần trong ngày.

15. Táo:


Là loại táo to nhập từ Trung Quốc và các nước châu Âu, chứa nhiều Kali có thể kết hợp với lượng Natri dư thừa để đào thải ra bên ngoài, giúp cho cơ thể duy trì huyết áp ở mức bình thường. Mỗi ngày nên ăn 3 quả hoặc ép lấy nước uống 3 lần, mỗi lần chừng 50ml.

16. Lê:


Là thứ quả có công dụng thanh nhiệt, trấn tĩnh và giáng áp, rất có lợi cho những người bị cao huyết áp có kèm theo các triệu chứng như đau đầu, chóng mặt, ù tai, hay hồi hộp trống ngực. Mỗi ngày nên ăn đều đặn từ 1- 2 quả hoặc ép lấy nước cốt uống.

17. Chuối tiêu:
Có công dụng thanh nhiệt, lợi niệu, thông tiện và giáng áp. Mỗi ngày nên ăn từ 1-2 quả, hoặc dùng vỏ quả chuối tiêu tươi 30-60g sắc uống thay trà.

18. Dưa hấu:


Rất thích hợp cho người bị cao huyết áp vào mùa hè vì có tác dụng thanh nhiệt và lợi niệu khá tốt, từ đó giúp cho huyết áp được ổn định. Người ta còn dùng vỏ dưa hấu 12g và thảo quyết minh 12g sắc uống thay trà hàng ngày, hoặc ăn hạt dưa hấu mỗi ngày từ 9-15g để làm hạ huyết áp.

19. Dưa chuột:


Chứa nhiều muối Kali, có tác dụng thanh nhiệt, giải thử, lợi niệu và giáng áp, rất thích hợp cho người bị cao huyết áp về mùa hè. Nên dùng dưới dạng ăn sống hoặc chế thành dưa góp nhưng chú ý không cho quá nhiều muối.

20. Nho:


Rất tốt cho người bị cao huyết áp, kể cả nho tươi hoặc nho khô, vì trong thành phần có chứa nhiều muối Kali nên có công dụng giảm áp, lợi niệu và bồi phụ lượng Kali mất đi do dùng các thuốc lợi tiểu Tây y.

21. Mã thầy:


Mỗi ngày dùng 60-120g rửa sạch, ép lấy nước, chia uống 3 lần trong ngày hoặc dùng 120g sắc cùng với hải đới 60g và hải tảo 60g, uống thay trà trong ngày.
Ngoài ra, người bị cao huyết áp còn nên trọng dụng một số thực phẩm khác như ngô (đặc biệt là trà râu ngô), vừng, hạt sen, ngó sen, củ cải, đậu tương, cải xanh, bắp cải, dầu thực vật, trà tâm sen, trà hoa hòe, trà thảo quyết minh, trà cúc hoa, trà bạch cúc, trà kỷ tử, mật ong... Không hoặc hạn chế dùng một số thực phẩm như lòng đỏ trứng, não động vật, gan dê, thịt chim sẻ, thịt dê, thịt chó, thận lợn, mỡ động vật, rượu trắng, dưa hoặc cà muối mặn, thuốc lá, cà phê, trà đặc, hạt tiêu, ớt, gừng...

Nguồn: http://hoanghieu-vuhoanghieu.blogspot.com/2011/11/thuc-pham-phong-chong-benh-cao-huyet-ap.html











 





Huyết áp cao: Nguyên nhân, triệu chứng và cách điều trị


Bệnh cao áp huyết (hypertension, high blood pressure) nguy hiểm, đưa đến những biến chứng như tai biến mạch máu não (stroke), chết cơ tim cấp tính (heart attack), suy tim, suy thận. 
Cao áp huyết còn rút ngắn tuổi thọ. Khổ cái, trong đa số các trường hợp, cao áp huyết không gây triệu chứng. Nhiều vị không biết mình mang bệnh,tình cờ đi thăm bác sĩ vì một lý do gì khác, được bác sĩ cho biết có cao áp huyết. Cho nên, cao áp huyết nổi danh là một ‘’căn bệnh thầm lặng’’.
Cao áp huyết là gì? Con tim bơm máu đi nuôi các cơ quan của cơ thể qua những hệ thống mạch máu gọi là động mạch. Ví như một máy bơm nước đẩy nước qua các ống dẫn. Khi máu được tim bơm đầy,và chảy trong lòng các mạch máu, sức ép của máu vào thành mạch máu sẽ tạo một áp suất (pressure) gọi là áp huyết (blood pressure). Áp huyết thay đổi tùy lúc, và tùy các hoạt động của cơ thể. Áp huyết xuống thấp hơn lúc ta ngủ, nghỉ và lên cao hơn khi tinh thần ta kích động, buồn bực hoặc trong lúc ta tập thể dục, chơi thể thao.
 
Áp huyết được diễn tả bằng 2 số, thí dụ: 140/90.Số trên (140) được gọi là áp suất systolic (áp suất tâm thu): Sức ép của máu vào lòng động mạch mỗi khi tim co bóp để bơm máu ra khỏi tim. Số dưới (90) được gọi áp suất diastolic (áp suất tâm trương): Áp suất trong lòng động mạch khi con tim dãn ra giữa hai nhịp co bóp. Số trên tượng trưng áp suất cực đại (maximum) trong lòng động mạch và số dưới tượng trưng áp suất cực tiểu (minimum) trong lòng động mạch.
Theo sự phân loại mới, áp suất systolic bình thường dưới 120 và áp suất diastolic dưới 80. Áp huyết từ 140/90 trở lên được xem là cao (đo ít nhất 3 lần,vào 3 dịp khác nhau), cao độ
Áp suất systolic: 140 đến 159, áp suất diastolic: 90 đến 99, cao độ 2: áp suất systolic: từ 160 trở lên,áp suất diastolic: từ 100 trở lên.
Những vị có áp suất systolic trong khoảng từ 120 đến 139,hoặc áp suất diastolic từ 80 đến 89, nay được xem là tiền cao áp huyết (prehypertension), sau dễ tiến đến cao áp huyết.

I.  NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH CAO HUYẾT ÁP:

Ðến 90% các trường hợp cao áp huyết, nguyên nhân của bệnh chưa được biết rõ, hoặc nói cách khác, với trình độ y khoa hiện tại, người ta chưa tìm ra được nguyên nhân. Một số như các trường hợp cao áp huyết gây do uống rượu nhiều quá, do bệnh của tuyến nội tiết,bệnh thận.
Có một số yếu tố ảnh hưởng, khiến người nọ có thể dễ mang bệnh cao áp huyết hơn người kia:
- Yếu tố gia đình: Cao áp huyết có tính di truyền. Có cha mẹ, anh em ruột cao áp huyết, đi khám bác sĩ, bạn nhớ cho bác sĩ biết điều này bạn nhé.
- Ðàn ông: Ðàn ông dễ cao áp huyết hơn phụ nữ. Tuy vậy, phụ nữ, sau khi mãn kinh, cũng dễ cao áp huyết hơn lúc còn kinh.
- Tuổi tác: Cao áp huyết dễ xảy ra sau tuổi 35.
- Giòng giống: Người da đen hay cao áp huyết hơn người da trắng và bệnh cao áp huyết ở người da đen cũng nặng hơn.
- Béo mập: Khi sức nặng của ta trên sức nặng lý tưởng so với chiều cao và vóc người 30% trở lên.
- Bệnh tiểu đường: Tiểu đường và cao áp huyết như đôi bạn thân, hay đi đôi với nhau, lại cùng nhau phá hoại tim và thận mạnh hơn.
- Rượu: Các khảo cứu cho thấy rượu uống nhiều và thường xuyên có thể đưa đến cao áp huyết, đồng thời cũng làm tăng tỷ lệ bị tai biến mạch máu não và bệnh thận.
- Ðời sống thiếu vận động: Ðời sống thiếu vận động dễ gây béo mập và béo mập, như đã biết, có thể đưa đến cao áp huyết.

II. BIẾN CHỨNG CỦA CAO ÁP HUYẾT

Bệnh cao áp huyết,không chữa trị,làm hại cơ thể ta nhiều cách.Áp huyết cao hơn bình thường khiến tim và các mạch máu phải làm việc nhiều hơn.Con tim lúc nào cũng gắng sức, sau trở thành mệt mỏi và yếu dần.Cho đến một lúc,con tim suy yếu sẽ không còn bơm đủ máu,không đáp ứng được nhu cầu của các cơ quan trong cơ thể,nhất là khi người bệnh vận động,gây các triệu chứng mau mệt,choáng váng,khó thở…,nhất là khi vận động.
Áp suất cao trong các mạch máu có thể làm tổn thương thành của các mạch máu. Nhưng chỉ tổn thương trong lòng các mạch máu dễ bị chất mỡ cholesterol và các tế bào tiểu cầu (platelet) luôn luôn có sẵn trong máu bám vào.Cơ chế dây chuyền này lại càng làm lòng các mạch máu tổn thương thêm nữa và dần dần nhỏ hẹp lại.Bạn tưởng tượng,nếu các mạch máu dồn máu đến nuôi tim càng lúc càng tổn thương và nhỏ hẹp lại,dĩ nhiên đến một ngày nào đó,sẽ không còn mang đủ máu đến để nuôi tim.Nếu một phần tim thiếu máu nuôi trầm trọng,phần tim đó có thể chết và gây ra hiện tượng chết cơ tim cấp tính (heart attack).
Tương tự,cao áp huyết làm tổn thương các mạch máu nuôi óc,nuôi thân,nuôi mắt,… gây các biến chứng tai biến mạch máu não,suy thận,giảm thị giác,…So với người thường, người cao áp huyết,nếu không chữa,dễ bị bệnh hẹp tắc các động mạch tim khiến tim đâm ra thiếu máu nuôi (ischemic heart disease) gấp 3 lần,dễ suy tim gấp 6 lần và dễ bị tai biến mạch máu não gấp 7 lần.

III.   TRIỆU TRỨNG BÊNH CAO HUYẾT ÁP:

Ða số người cao áp huyết không có triệu chứng.Một số vị có những triệu chứng mơ hồ như hồi hộp (cảm thấy tim đập mạnh),nhức đầu,chóng mặt,…Cách tốt nhất,cứ 1-2 năm,dù chẳng cảm thấy mình có bệnh gì,bạn cũng nên đi khám bác sĩ và nhớ đo áp huyết,nhất là nếu bạn lại có những yếu tố không tốt như đã kể trên.
Với bác sĩ,định bệnh cao áp huyết thường chẳng khó gì.Một người xem là có cao áp huyết,nếu áp huyết cao từ 140/90 trở lên,đo 3 lần vào 3 dịp thăm khám khác nhau (người bệnh không nên dùng cà-phê,hút thuốc lá trước đó,nên ngồi nghỉ một lát,rồi áp huyết được đo ở tư thế ngồi hay nằm).Sau khi xác định một người có cao áp huyết,để tìm xem các cơ quan bên trong cơ thể đã tổn thương do cao áp huyết hay chưa,để từ đó,sẽ hoạch định đường hướng trị liệu,bác sĩ sẽ khám kỹ mắt,tim,các mạch máu.Ðồng thời, bác sĩ cho thử máu,thử nước tiểu, làm tâm điện đồ và chụp phim ngực (chest X-ray: chúng ta hay quen miệng gọi phim phổi). Những thử nghiệm và phim ngốc này giúp bác sĩ tìm hiểu thêm được người bệnh có cao cholesterol trong máu hay không, tim, thận đã tổn thương vì cao áp huyết hay chưa. Ðây là những yếu tố quan trọng cần nắm vững trước khi bác sĩ quyết định trị liệu bằng phương cách nào.
A.- Nhưng nếu bạn mang bệnh cao áp huyết,khi đi khám bệnh,bạn nên kể bệnh như thế nào nhỉ.Hay ta thử nghe một vị biết cách kể bệnh,trình bày cho bác sĩ nghe vấn đề cao áp huyết của mình:
Tôi đến đây hôm nay nhờ bác sĩ xem hộ tôi bệnh cao áp huyết. Tôi năm nay 45 tuổi, sang Mỹ mới 1 tháng. 2 năm trước,một hôm đau bụng,tôi đi khám bác sĩ,được bác sĩ cho biết áp huyết tôi hôm đó 142 trên 90. Áp huyết đo lại 2 lần sau đó cũng vẫn cao trên 140/90. Bác sĩ kết luận là tôi có cao áp huyết nhẹ.Bác sĩ cho thử máu,thử nước tiểu,làm tâm điện đồ,chụp phim phổi (tôi nghe nói,ở bên này, người Mỹ gọi là ‘’chest X-ray’’,dịch là phim ngực), và cho biết tôi không bị tiểu đường,cao cholesterol hay bị bệnh gì khác.Sau 3 tháng theo dõi và khuyên tôi bỏ thuốc lá,ăn lạt,thường xuyên vận động không có kết quả,bác sĩ cho tôi uống Aldomet 250 mg,ngày 3 lần. Áp huyết tôi xuống còn 120/80,bác sĩ bảo là tốt. Có điều Aldomet hay làm tôi mệt mỏi và buồn ngủ. Giữa tôi với bác sĩ,tôi cũng xin nói thực,nó cũng làm vấn đề chồng vợ của tôi bị suy giảm.Tôi ngưng Aldomet từ ngày qua Mỹ 1 tháng trước và từ đó đến nay,không dùng thuốc gì cả. Tôi hoàn toàn không có triệu chứng gì bất thường.Tôi bỏ hẳn thuốc lá 2 năm trước,khi được biết bị cao áp huyết,theo lời khuyên của bác sĩ. Tôi không uống rượu thường xuyên,chỉ thỉnh thoảng cuối tuần làm vài lon bia với bạn bè cho vui.
Bạn cũng nhớ cho bác sĩ biết bạn có hút thuốc lá,có uống rượu,hoặc đang dùng bất cứ thuốc nào không,kể cả những thuốc mua bên ngoài không cần toa bác sĩ,vì nhiều thuốc,như thuốc ngừa thai,thuốc chữa sổ mũi,nghẹt mũi (Actifed, Dimetapp, Sudafed,…) có thể làm áp huyết tăng cao.

IV.   CÁCH ĐIỀU TRỊ BỆNH CAO HUYẾT ÁP:

Cao áp huyết cần được chữa trị cẩn thận, để giảm thiểu những biến chứng, giúp ta sống lâu hơn và vui hơn. Sự chữa trị tùy vào mức độ của căn bệnh và cũng tùy vào nhiều yếu tố khác.
Các phương pháp chữa trị lúc chưa cần dùng đến thuốc: Xuống cân nếu béo mập,ăn một thực phẩm ít mặn và ít chất béo,bỏ thuốc lá, bớt uống rượu, thường xuyên vận động. Mỗi người có một sức nặng lý tưởng so với chiều cao và vóc người. Nếu người cao áp huyết có sức nặng trên sức nặng lý tưởng,bác sĩ thường khuyên người bệnh tìm cách xuống ký bằng ăn kiêng (diet) và vận động (exercise).
Về mặt chữa bằng thuốc, có rất nhiều điều bác sĩ cần suy tính trước khi đặt bút biên toa. Ta cố đưa áp huyết xuống dưới 140/90 (ở người tiểu đường, người suy thận, nên dưới 130/80), với một thuốc rẻ, không gây phản ứng phụ (side effects), ngày dùng chỉ một lần cho tiện. (Nguyên tắc rẻ,đẹp,bền ở đâu cũng đúng.)
Thuốc chữa cao áp huyết ở Mỹ nay có 8 loại: Diuretics,ACE inhibitors,Angiotensin II receptor blockers,Calcium channel blockers,Beta blockers,Alpha blockers,Direct vasodilators, Centrally acting agents, tác dụng theo những cơ chế khác nhau, giá cả cũng rất khác biệt.
Thuốc nào cũng có mặt lợi và hại, cùng những tác dụng phụ của nó. Trong đa số các trường hợp cao áp huyết, những tài liệu hiện thời ở Mỹ đều khuyên chúng ta nên thử thuốc thuộc loại Diuretics (lợi tiểu) trước, vì thuốc này gần với nguyên tắc ‘’rẻ,đẹp,bến’’ nhất, rất hữu hiệu, lại rẻ, dùng lâu dài không cháy túi tiền.
Nhiều thuốc cao áp huyết có tác dụng chữa được cả bệnh khác, chẳng hạn các thuốc propanolol, timolol ngừa được các cơn nhức đầu một bên migraine, hai thuốc Hytrin, Cardura làm giảm các triệu chứng của bệnh to nhiếp hộ tuyến. Khéo dùng thuốc, ta có thể một ná bắn hai chim, dùng một thuốc chữa cả hai bệnh.
Bạn nên uống thuốc đều, không nên tự thay đổi lượng thuốc hoặc ngưng thuốc khi thấy áp huyết đã xuống lại bình thường và nhớ trở lại tái khám đúng hẹn với bác sĩ. Cao áp huyết là bệnh kinh niên, suốt đời ta cần chữa kỹ.
Sự chữa trị nào trong y khoa cũng là tính toán, dò dẫm, bạn nên để bác sĩ có dịp thi thố tài năng vài lần. Dùng một thuốc cao áp huyết không hợp, gây cho bạn phản ứng khó chịu, bạn nên trở lại cho bác sĩ biết, nhờ bác sĩ điều chỉnh sự chữa trị, có khi đổi một thuốc khác xem sao. Bạn chớ vội nghe rỉ tai: Thuốc tây ‘’nóng’’ lắm, chỉ nên dùng (như thế thì…tội cho thuốc tây lắm lắm, một thuốc làm bạn khó chịu, hàng trăm thuốc khác hàm oan). Rồi mất tiền vào những chữa trị chẳng có sách vở nào nói đến,cho đến một sáng đẹp trời, bạn mở mắt thức dậy,thấy một bên người liệt vì tai biến mạch máu não.Muộn mất rồi.
Cao áp huyết,‘’căn bệnh thầm lặng’’, lặng lẽ làm tổn thương các cơ quan của cơ thể và rút ngắn tuổi thọ. Khám phá anh chàng thầm lặng này, đặt anh ta vào vòng kiểm soát, ta cứu vãn được nhiều việc.