Hiển thị các bài đăng có nhãn Góc truyện. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Góc truyện. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Ba, 5 tháng 6, 2012
Lettres De Mon Moulin: I - Đến Nhà Mới
Chỉ có các chú thỏ là ngơ ngác!... Từ lâu lắm rồi họ thấy cửa cối xay đóng chặt, tường và sân cỏ mọc lan tràn, nên rút cuộc đã cho rằng dòng giống bọn xay lúa tuyệt diệt rồi. Thấy chỗ tốt họ liền lập ngay đại bản doanh ở đó, một trung tâm chiến lược... của họ nhà thỏ... Đêm tối đến, không nói ngoa tí nào, thực có đến hai mươi chú ngồi quây tròn trên sân đằng trước, đang dơ chân lên sưởi ánh trăng... Chỉ đủ thì giờ mở cái cửa tò vò, s..oạt... thế là cả trại quân tan tác, những chiếc mông trắng, đuôi giơ lên giời chạy biến vào đám cỏ rậm. Tôi mong họ sẽ trở lại.
Có một kẻ khác cũng ngơ ngác lắm khi trông thấy tôi: đó là người thuê tầng trên, một chú cú già ghê tởm, đầu như đầu nhà triết học và ở đây đã hơn hai mươi năm. Tôi thấy anh chàng ở phòng trên cao, im lặng, đứng thẳng trên chiếc trục cối xay giữa những đám vôi lở và ngói vỡ. Anh chàng nhìn tôi một lúc, mắt tròn xoe. Rồi hoảng hốt vì không nhận ra tôi, anh chàng liền kêu lên hu hu và nặng nề lắc lư đôi cánh xám đầy bụi!... Chà! Bọn triết gia ma quái này họ có chải chuốt bao giờ đâu! Có quan hệ gì! Với hình dáng ấy, với đôi mắt nhấp nháy và vẻ mặt khó chịu, anh chàng ở thuê yên lặng này cũng làm cho tôi mến hơn người khác và tôi liền lập ngay khế ước thuê mướn cho anh chàng này. Cứ như trước anh chàng giữ cả tầng trên với cửa sổ vào trên mái nhà; còn tôi dành riêng phòng dưới; một căn phòng quét vôi trắng, thấp và khum khum như buồng ăn của một nhà tu kín.
Chính từ nơi đây, tôi viết thư cho bạn, cửa phòng mở toang đón ánh nắng mặt trời. Một cánh rừng thông xinh xắn, tưng bừng ánh sáng thoai thoải đổ dài trước mặt tôi, xuống tận chân đồi. Phía chân trời ngọn núi Alpilles nhỏ nhắn nổi bật lên rõ rệt... Không một tiếng động, thỉnh thoảng ở đằng xa xa một tiếng sáo, một tiếng chim trong bụi hương thảo, một tiếng nhạc la trên đường... Cả cái cảnh đẹp miền Provence này chỉ sống bằng ánh sáng.
Và bây giờ làm sao bạn làm sao có thể bắt tôi luyến tiếc cái thành phố Ba Lê ồn ào và đen tối của bạn! Ở trong cối xay, tôi thấy dễ chịu lắm. Đó chính là nơi tôi muốn tìm kiếm từ lâu, một nơi thơm tho, ấm áp, cách xa hàng ngàn dặm!... các nhật báo, xe cộ, sương mù. Chung quanh tôi biết bao là thứ đẹp! Tới đây chưa đầy tám ngày mà đầu óc tôi đã đầy cảm giác và kỷ niệm... Đây này, không lâu la gì, mới chiều hôm qua tôi được xem các đàn cừu trở về trại dưới chân đồi và tôi đoan với các bạn rằng tôi không có đổi cảnh tượng này lấy tất cả các buổi biểu diễn mở màn ở các rạp hát thành Ba Lê trong tuần này đâu nhé. Đây các bạn xem:
Cần phải nói để các bạn biết ở miền Provence, mỗi khi trời bắt đầu nóng, người ta có lệ cho các bầy chiên lên nghỉ mát ở trên núi. Người và vật ở đó năm hay sáu tháng, ngủ ở ngoài trời, cỏ ngập đến bụng; rồi khi ngọn gió lạnh rùng mình của mùa thu bắt đầu thổi, họ trở xuống đồng bằng và quay về gặm cỏ một cách trưởng giả trên những ngọn đồi nhỏ xám đầy hương thơm của cây hải hoa... Vậy thế là chiều hôm qua, bầy chiên đã trở về. Từ buổi sáng, cổng mở rộng hai cánh để đón, các chuồng chiên đầy rơm tươi. Từng giờ một, người ta bảo nhau:"Bây giờ họ ở Eyguieres, e bây giờ họ ở Paradou". Và đằng xa chúng ta thấy bầy chiên tiến đến trong đám bụi mù trời. Cả con đường cái như cùng đi với họ... Bọn chiên đực, già, đi đầu, sừng đưa về đằng trước, dáng điệu hùng hổ; sau chúng là phần lớn đàn cừu, các chị cừu mẹ hơi uể oải, các chú chiên con đi lẫn dưới chân mẹ. Các nàng la đeo gù đỏ vừa đi vừa rung rinh những chiếc rổ to trong đựng các chú chiên con mới sinh được một ngày, rồi đến các anh chó mồ hôi nhễ nhại, lưỡi thè ra tận đất và hai chàng chăn chiên tai quái, cứng nhắc trong chiếc áo sợi to màu đỏ xám, dài chấm gót như chiếc áo thầy tu.
Tất cả các bạn đó vui vẻ đi qua trước mặt chúng tôi, kéo ùa qua cổng, chân bước rầm rập như tiếng mưa rào. Cảnh tượng trong nhà mới thật là cảm động. Từ trên chỗ đậu cao, các chú công bự xanh và vàng, mào tựa vải thưa, nhận ra những kẻ vừa mới về và chào đón họ bằng một tiếng kèn inh tai. Cả chuồng gà vừa thiu thiu ngủ cũng vội vàng tỉnh dậy. Tất cả mọi vật đều dậy hết: nào bồ câu, nào vịt, nào gà tây, gà Nhật Bản. Sân gà vịt như điên cuồng, các chị gà mái bảo nhau định thức suốt sáng!... Người ta có thể cho rằng mỗi chú cừu đều đem theo về, đượm trong bộ lông, cùng với hương thơm của rừng núi một chút khí trời mạnh mẽ trên núi cao, làm cho say sưa và muốn nhảy cỡn chơi vui...
Trong cảnh nhộn nhịp đó, bầy chiên về chỗ ngủ. Không còn cảnh tượng nào thú vị hơn cảnh tượng lúc này. Các chàng chiên đực cảm động khi lại nhìn thấy chậu đồ ăn quen thuộc. Các chú chiên con, chiên nhỏ tí, sinh ở dọc đường chưa từng nhìn thấy trại bao giờ, nhìn chung quanh với một vẻ bỡ ngỡ lạ lùng.
Nhưng cảm động hơn hết là các anh chó, các anh chó can đảm của người chăn chiên, bận rộn vô cùng vì các đàn chiên, và chỉ biết có đàn chiên trong trại. Chàng chó gác cổng tự trong góc cũi tha hồ gọi. Thùng nước trong múc từ dưới giếng lên tha hồ ra hiệu, chúng không muốn trông thấy gì, không muốn nghe thấy gì hết trước khi bầy chiên về chỗ, then cửa chấn song đóng chặt và các người chăn chiên ngồi vào bàn ăn trong gian phòng thấp. Mãi tận lúc đó chúng mới chịu về chỗ ngủ và ở đó chúng vừa liếm dĩa súp, vừa kể cho các bạn trong trại nghe công việc đã làm trên núi cao, một miền đen tối có chó sói và các hoa ngón tay to, đỏ thắm đầy ắp sương mai.
Lettres De Mon Moulin: Mở Đầu
Trước mặt ông Honorat Grapazi, chưởng khế tại Pamperigouste.
Đã đến trình diện:
Ông Gaspard Mitiflo, chồng bà Vivette Cornille trại chủ tại Cigalieres và ngụ tại đó.
Ông Mitiflo, bằng các văn thư này, đã đoạn mại và chuyển dịch với sự đảm bảo của luật pháp và thực tế, miễn trừ tất cả các món nợ, quyền ưu tiên và để đương, cho ông Daudet, thi sĩ ngụ tại Ba Lê, có mặt tại đây và chấp thuận.
Một chiếc cối xay gió và xay bột, tọa lạc tại khu vực sông Rhone, trung tâm xứ Provence, trên một ngọn đồi giồng thông và sến xanh, chiếc cối xay này đã bỏ hoang từ hơn 20 năm nay, không còn xay được nữa, chứng cớ là các giàn nho dại, rêu, hải hoa và các cây tầm gửi khác đã bò lên tận đầu hai cánh.
Dù vậy, với tình trạng hiện thời, chiếc bánh xe to đã gãy, sân đằng trước cỏ mọc đầy trên gạch, ông Daudet cũng thấy cối xay đó hợp ý ông, có thể dùng làm chỗ để ngâm thơ được, nên nhận mua, chịu tất cả mọi sự có thể xảy sau này, không kiện cáo gì người bán về những sự sửa chữa có thể phải làm.
Việc đoạn mại này đã bán toàn thể theo giá đã định. Ông Daudet thi sĩ đã dặt tại văn phòng bằng tiền hiện lưu hành. Số tiền này ông Mitiflo đã nhận đủ với sự hiện diện của các chưởng khế và các nhân chứng ký tên dưới đây, phái lai sẽ lập sau.
Bản văn này làm tại Pamperigouste, tại văn phòng ông Honorat, trước mặt ông Francet Mamai, tài tử thổi sáo và ông Louiset dit le Quique mang thánh giá ở nhà giòng áo trắng.
Đã cùng ký tên với hai bên đương sự và chưởng khế, sau khi đã đọc xong.
Ảnh minh họa: lấy từ Internet
Lettres De Mon Moulin - Alphonse Daudet
"Lettres de mon moulin" là tập truyện ngắn của văn hào Alphonse Daudet (1840 - 1897). Tác phẩm gồm những truyện nhỏ mà tác giả đã viết khi về nghỉ tại một cối xay cũ kỹ ở miền Nam nước Pháp, là nơi quê hương tuyệt vời của tác giả. Giá trị của tác phẩm này đã vượt qua cả không gian và thời gian vì những truyện ngắn thâu góp trong tác phẩm nhiều khi rất sâu sắc, châm biếm, thi vị hay chứa chan tình cảm khiến người đọc phải say mê. Chính tác giả đã viết:"Đấy chính là tác phẩm tôi thích nhất, không phải về phương diện văn chương mà bởi vì tác phẩm này đã nhắc nhở cho tôi những giờ khắc đẹp nhất của tuổi trẻ, những trận cười điên cuồng, những phút say mê không hối hận, nhũng bộ mặt, những bóng dáng bạn bè, mà sau này không bao giờ tôi còn được trông thấy nữa".
Dịch giả: Nguyễn Xuân Hiếu và Trần Mộng Chu
Ảnh minh họa: lấy từ Internet
Dịch giả: Nguyễn Xuân Hiếu và Trần Mộng Chu
Ảnh minh họa: lấy từ Internet
Thứ Ba, 6 tháng 3, 2012
Sự Tích Cỏ Ba Lá
Chuyện kể rằng nơi thảo nguyên xa xôi
Có một cây cỏ xanh nhỏ bé
Hát ngân nga trong những cơn gió nhẹ
Bài tình ca tặng cây bụi đứng bên
Cây bụi ơi sao chẳng ngoái nhìn,
Cứ mải mê ngóng những ong và bướm
Cứ buồn bã vì mình không có được
Nét rực rỡ hướng dương hay thơm ngát nụ hồng…
Cây bụi không biết có một kẻ hết lòng
Tặng cho Cây cả tình yêu, niềm tin, hy vọng
Dồn màu xanh vào ba cánh trái tim căng mọng
Yêu đơn phương không mong đợi điều chi.
Mỗi ngày mới khi màn đêm vừa đi
Cỏ ba lá ngước nhìn mặt trời với khát khao duy nhất
Vầng dương ơi hãy lắng nghe tiếng lòng em chân thật
Nguyện làm tất cả để Cây bụi được vui..
Có thể chăng ban một đoá hoa thôi
Là Cây bụi sẽ có được tình yêu của ong và bướm.
Cỏ ba lá nhỏ nhoi nhưng tình yêu rộng lớn
Có thể làm gì để thực hiện ước mơ?
Trên thảo nguyên mây trắng vẫn lững lờ
Gió bay qua thì thầm “cần một điều may mắn…
Chỉ khi nào Cỏ có bốn lá thôi…”
Cỏ chợt buồn vì điều đó quá xa xôi
Vậy ra trong cuộc đời không chỉ
cần có tình yêu, niềm tin, hy vọng…
Khẽ nghiêng mình ngắm ba trái tim bé bỏng
Làm sao có được một lá thứ tư?
Cây bụi đứng bên vẫn ủ rũ trầm tư
Cỏ ba lá run run “vì cây em sẽ…”
Cây bụi vô tâm không nghe thấy có âm thanh rất nhẹ…
Tiếng một trái tim vừa tự vỡ làm đôi.
Cỏ ba lá giờ có bốn cánh rồi
Cây bụi nở bừng những bông hoa sặc sỡ
Vui sướng hân hoan trong nắng vàng rạng rỡ
Đâu biết dưới chân Cỏ đang héo dần đi…
Hạnh phúc khi yêu là được cho đi...
Tình yêu đó lớn đến vỡ đôi trái tim em xanh mướt
Để nhắn nhủ những ai đang kiếm tìm:
May mắn không tự nhiên có được
Mà đến từ tình yêu và những trái tim biết sống vị tha.
Sưu tầm từ Internet
Thứ Tư, 6 tháng 7, 2011
Xe miền Tây - Nguyễn Ngọc Tư
Người ta mở một đường bay từ Sài Gòn về Cà Mau. Mỗi khi có dịp đi khỏi nhà, mình lại có thêm một lựa chọn hoặc níu cánh máy bay vượt dặm dài hoặc leo lên xe đò đi túc tắc; hoặc loay hoay ngồi chưa ấm chỗ đã vụt đến nhà hoặc rị mọ tám giờ đồng hồ ê ẩm mông, đau nhừ lưng, đờ cả cổ. Và mình thường chọn cách thứ hai.
Mình gọi đó là “liệu pháp đường xa” mỗi khi cần phải chống sốc vì phải đi về giữa hai môi trường sống, hai thế giới khác biệt. Quả thật thần kinh mình hơi… mỏng. Nên hoang mang gửi lại ngã ba Trung Lương. Đãi bôi bỏ bên cầu Mỹ Thuận. Ấm lạnh người đời mình thả xuống bắc Cần Thơ. Hội hè miên man bỏ lại ở quán ăn bên đường, cùng với được mất đắng cay sau những ngày rời tổ. Có quá nhiều thứ phải bỏ lại, và mình cần có thời gian. Cũng may đường rất dài mà xe chạy thì chậm rãi, nhà cũng xa vừa vặn để mình trở lại là mình (hoặc gần giống mình).
Cũng có khi đi xa tới vùng đất nào đó rất xa, nhớ miền Tây quá lúc quay về mình dứt khoát leo xe đò. Vì ở đó có ít nhất ba thứ đặc miền Tây mà hầu như trên chuyến xe miền Tây nào cũng có : nhạc bolero (hoặc vọng cổ), dầu gió, và… người miền Tây (thí dụ như mình).
Thứ nào mình cũng chịu được, nhất là chịu được cả mùi dầu gió Kim, Nhị Thiên Đường, Trường Sơn… nồng nặc trên một chiếc xe kín mít rù rì máy lạnh. Người miền khác ưa không vô. Có lần ngồi cạnh một anh cứ phe phẩy tay trước mũi chê hôi, mình muốn… nhéo anh ta bầm dập để anh thuộc cho rành cái câu nhập gia tùy tục. Thưa anh xứ này người ta bôi dầu gió lên mũi cho ấm, chà xát lên lưng trừ cảm cúm thông thường, uống cả dầu gió những khi đau bụng, hôi gì mà hôi. Tôi đây nè, mới chui ra khỏi bụng mẹ đã được tẩm dầu khuynh diệp, chưa đầy tuổi đã ngủ cùng bà ngoại, nghiện mùi cốt trầu, dầu gió đến nỗi không ngủ được lúc bà đi đâu vắng.
Mình không quen chủ doanh nghiệp nào bán dầu gió để hỏi coi miền Tây hoang dại này mua của anh (chị) nhiều bao nhiêu, nhưng rõ ràng là miền Tây vẫn còn ăn dầu gió thở dầu gió. Ngồi xe đò thì thấy rõ, có nhiều thím bị say xe cứ như tưới tắm bằng dầu. Mình vài ba năm trước cũng hay say, trước khi đi chuẩn bị nào gừng nào củ sắn nào dầu gió xanh… trước khi lên xe còn lượm cục đá bỏ vô giỏ. Nghĩa là vài ba năm trước mình còn… hôi, theo như cách nghĩ của anh bạn đường đến từ xứ khác, xa xôi.
Dù vậy, mình cũng thòm thèm xoắn áo động tay, vì chê bai dầu gió chán anh lại than vãn mấy cái bài bolero đang ca trong xe văng vẳng. Bài “Gió thổi bên sông” quặn lòng là vậy mà anh ta phì cười đã thấy giận rồi, chuyển qua “Đồi thông hai mộ”, “Chuyến đò không em” cảm động gần chết, mà anh nhăn nhó vậy có phải khó coi, ứa gan không ? Nếu vậy thì “anh tài xế ơi, có nhạc nào mùi hơn nữa thì mở lớn lớn nghe chơi. Hương Lan, Thanh Thúy hay Cẩm Ly… cũng được”, mình chọc tức anh chơi mà cả xe nhao nhao góp lời, “Ừa, được đó”.
Thôi anh chịu khó, xe đò miền Tây nó vậy, bolero cũng như dầu gió, không có sao thành… miền Tây. Nếu anh đừng nôn nóng, đừng phủi như phủi bụi ngay từ đầu, anh sẽ thấy trong mỗi bài ca có một vài câu được lắm, ngọc nằm trong đá chớ đâu. Đây Phố đêm “đèn mờ giăng giăng/ Màu trắng như vì sao gối đầu ngủ yên…”; đây Đường xưa lối cũ “có em tôi tóc xanh bay mơ màng/ Đường chiều dịu nắng, bóng em đi áo nâu in đường trăng”; đây Dòng đời “ngược xuôi bèo mây tan tác…”; đây Thói đời ‘cười ra nước mắt khi trắng tay gọi tên bằng hữu giờ giàu sang quên kẻ thâm giao…”.
Mình thiệt tình không dám chắc là chúng hay, nhưng biết đâu anh bạn cũng có mối tình dở dang như vầy, từng buồn như vầy, từng than thở như vầy, rằng “nếu không dang dở làm sao trọn đời nhớ em…”. Năm ba bữa nữa anh còn ở lại miền Tây là còn gặp bolero dài dài, ở quán ăn, chiếu nhậu, ở những chiếc xe bán nước giải khát rong ngoài đường. Nếu may (tôi nhấn mạnh là may), anh sẽ nhận ra vẻ đẹp của bolero vào một chiều tắt ngồi bên dòng sông mênh mang, ngó lục bình trôi dưới trời mưa mỏng; hay một buổi trưa hoang hoải ngó những cây thốt nốt trầm ngâm, kiêu hãnh cô độc đứng trên đồng; hay chút nữa đây xe sẽ trôi vào đêm tối, khung cảnh ngoài kia chìm trong mụ mị, anh nghe Cuốc kêu bên trời “ta gối lá ngắm trăng lên, hoa bần rơi trắng đôi bờ kinh…”, biết đâu anh không còn bĩu môi chê nhạc gì mà sến chảy nước, tới bán bia ôm, đi xe đò cũng viết thành bài hát nữa là sao ? Nhưng không bolero thì lấy đâu ra những bài hát cho những người thân phận mỏng, anh?
Mình thu nắm đấm (tưởng tượng) lại, thôi kệ anh cứ ghét đi, ghét cũng là nhớ, nhiều khi còn nhớ hơn thương, chớ giỡn. Cũng có thể anh đúng, biết đâu… Có thể mình giảy nảy lên vì mình ham miền Tây đến mù quáng mất rồi. Ví dụ như xe đò miền Tây này đâu có gì hay, ngồi mòn mỏi mất thời gian, phải ngồi máy bay thì đã tới nhà từ lâu lắm, ngủ một giấc đã đời, bồng trẻ con đi chơi. Nhưng mình vẫn chọn xe đò, lý do gì thì mình đã kể ở đây, ở những trang viết khác. Mình thấy không có gì là phiền phức nếu chị nọ ngủ say cứ tựa đầu vào vai mình, hay cái cách rút chân lên ngồi chồm hổm trên ghế của anh kia. Hay cái ông ngồi đằng sau chuông điện thoại cứ gióng lên câu vọng cổ “Điệp ơi mai anh lên chốn thành đô nhà xe rực rỡ, xin đừng quên bến đò ngang con sông nhỏ…”, mà bao giờ chờ xuống xề ông mới chịu bắt máy trả lời. Kiểu nói chuyện điện thoại mình thường gặp trên xe, giọng oang oang, đầu thì gật lắc, tay xua xua, hấp háy mắt, như thể người bên đầu dây kia đang ngồi trước mặt.
Thôi thì chân chất, ừ thì quê mùa… miền Tây mà, vẫn nghèo vẫn xa xôi. Đây không phải Sài Gòn Hà Nội, đây là một thế giới khác rồi. Thế giới mà người ta vẫn còn mua bắp luộc, bánh mì ở bến xe đem về xứ làm quà, trẻ con vẫn reo mừng tở mở. Xe ghé quán ăn dọc đường, nhiều người ngồi chồm hổm chờ ngoài sân không dám ghé mông ngồi vào ghế, sợ thức ăn đắt đỏ. Đi qua quầy trái cây mình thấy có người đứng đằng xa ngó, tay nắn hai túi áo bà ba mỏng, trên miệng túi cài cái kim tây. Có lần mình ngồi cạnh một bà già, cứ ngồi lận lấy mấy hạt lúa từ trong nẹp vạt áo, cắn lóc cóc.
Những người miền Tây quăn queo lam lũ thật thà này, bolero này, dầu gió này mình không bao giờ gặp trên những chuyến bay. Lý do có vẻ ngớ ngẩn, nên thấy mình ham xe đò có bạn bè cười, mình chống chế bằng một câu danh ngôn nổi tiếng, những gì thuộc về con người thì không xa lạ với tôi. Nhưng trong bụng nghĩ, thôi bà sến thì nói đại là sến cho rồi, có sao đâu…
Nguồn: vnthuquan
Mình gọi đó là “liệu pháp đường xa” mỗi khi cần phải chống sốc vì phải đi về giữa hai môi trường sống, hai thế giới khác biệt. Quả thật thần kinh mình hơi… mỏng. Nên hoang mang gửi lại ngã ba Trung Lương. Đãi bôi bỏ bên cầu Mỹ Thuận. Ấm lạnh người đời mình thả xuống bắc Cần Thơ. Hội hè miên man bỏ lại ở quán ăn bên đường, cùng với được mất đắng cay sau những ngày rời tổ. Có quá nhiều thứ phải bỏ lại, và mình cần có thời gian. Cũng may đường rất dài mà xe chạy thì chậm rãi, nhà cũng xa vừa vặn để mình trở lại là mình (hoặc gần giống mình).
Cũng có khi đi xa tới vùng đất nào đó rất xa, nhớ miền Tây quá lúc quay về mình dứt khoát leo xe đò. Vì ở đó có ít nhất ba thứ đặc miền Tây mà hầu như trên chuyến xe miền Tây nào cũng có : nhạc bolero (hoặc vọng cổ), dầu gió, và… người miền Tây (thí dụ như mình).
Thứ nào mình cũng chịu được, nhất là chịu được cả mùi dầu gió Kim, Nhị Thiên Đường, Trường Sơn… nồng nặc trên một chiếc xe kín mít rù rì máy lạnh. Người miền khác ưa không vô. Có lần ngồi cạnh một anh cứ phe phẩy tay trước mũi chê hôi, mình muốn… nhéo anh ta bầm dập để anh thuộc cho rành cái câu nhập gia tùy tục. Thưa anh xứ này người ta bôi dầu gió lên mũi cho ấm, chà xát lên lưng trừ cảm cúm thông thường, uống cả dầu gió những khi đau bụng, hôi gì mà hôi. Tôi đây nè, mới chui ra khỏi bụng mẹ đã được tẩm dầu khuynh diệp, chưa đầy tuổi đã ngủ cùng bà ngoại, nghiện mùi cốt trầu, dầu gió đến nỗi không ngủ được lúc bà đi đâu vắng.
Mình không quen chủ doanh nghiệp nào bán dầu gió để hỏi coi miền Tây hoang dại này mua của anh (chị) nhiều bao nhiêu, nhưng rõ ràng là miền Tây vẫn còn ăn dầu gió thở dầu gió. Ngồi xe đò thì thấy rõ, có nhiều thím bị say xe cứ như tưới tắm bằng dầu. Mình vài ba năm trước cũng hay say, trước khi đi chuẩn bị nào gừng nào củ sắn nào dầu gió xanh… trước khi lên xe còn lượm cục đá bỏ vô giỏ. Nghĩa là vài ba năm trước mình còn… hôi, theo như cách nghĩ của anh bạn đường đến từ xứ khác, xa xôi.
Dù vậy, mình cũng thòm thèm xoắn áo động tay, vì chê bai dầu gió chán anh lại than vãn mấy cái bài bolero đang ca trong xe văng vẳng. Bài “Gió thổi bên sông” quặn lòng là vậy mà anh ta phì cười đã thấy giận rồi, chuyển qua “Đồi thông hai mộ”, “Chuyến đò không em” cảm động gần chết, mà anh nhăn nhó vậy có phải khó coi, ứa gan không ? Nếu vậy thì “anh tài xế ơi, có nhạc nào mùi hơn nữa thì mở lớn lớn nghe chơi. Hương Lan, Thanh Thúy hay Cẩm Ly… cũng được”, mình chọc tức anh chơi mà cả xe nhao nhao góp lời, “Ừa, được đó”.
Thôi anh chịu khó, xe đò miền Tây nó vậy, bolero cũng như dầu gió, không có sao thành… miền Tây. Nếu anh đừng nôn nóng, đừng phủi như phủi bụi ngay từ đầu, anh sẽ thấy trong mỗi bài ca có một vài câu được lắm, ngọc nằm trong đá chớ đâu. Đây Phố đêm “đèn mờ giăng giăng/ Màu trắng như vì sao gối đầu ngủ yên…”; đây Đường xưa lối cũ “có em tôi tóc xanh bay mơ màng/ Đường chiều dịu nắng, bóng em đi áo nâu in đường trăng”; đây Dòng đời “ngược xuôi bèo mây tan tác…”; đây Thói đời ‘cười ra nước mắt khi trắng tay gọi tên bằng hữu giờ giàu sang quên kẻ thâm giao…”.
Mình thiệt tình không dám chắc là chúng hay, nhưng biết đâu anh bạn cũng có mối tình dở dang như vầy, từng buồn như vầy, từng than thở như vầy, rằng “nếu không dang dở làm sao trọn đời nhớ em…”. Năm ba bữa nữa anh còn ở lại miền Tây là còn gặp bolero dài dài, ở quán ăn, chiếu nhậu, ở những chiếc xe bán nước giải khát rong ngoài đường. Nếu may (tôi nhấn mạnh là may), anh sẽ nhận ra vẻ đẹp của bolero vào một chiều tắt ngồi bên dòng sông mênh mang, ngó lục bình trôi dưới trời mưa mỏng; hay một buổi trưa hoang hoải ngó những cây thốt nốt trầm ngâm, kiêu hãnh cô độc đứng trên đồng; hay chút nữa đây xe sẽ trôi vào đêm tối, khung cảnh ngoài kia chìm trong mụ mị, anh nghe Cuốc kêu bên trời “ta gối lá ngắm trăng lên, hoa bần rơi trắng đôi bờ kinh…”, biết đâu anh không còn bĩu môi chê nhạc gì mà sến chảy nước, tới bán bia ôm, đi xe đò cũng viết thành bài hát nữa là sao ? Nhưng không bolero thì lấy đâu ra những bài hát cho những người thân phận mỏng, anh?
Mình thu nắm đấm (tưởng tượng) lại, thôi kệ anh cứ ghét đi, ghét cũng là nhớ, nhiều khi còn nhớ hơn thương, chớ giỡn. Cũng có thể anh đúng, biết đâu… Có thể mình giảy nảy lên vì mình ham miền Tây đến mù quáng mất rồi. Ví dụ như xe đò miền Tây này đâu có gì hay, ngồi mòn mỏi mất thời gian, phải ngồi máy bay thì đã tới nhà từ lâu lắm, ngủ một giấc đã đời, bồng trẻ con đi chơi. Nhưng mình vẫn chọn xe đò, lý do gì thì mình đã kể ở đây, ở những trang viết khác. Mình thấy không có gì là phiền phức nếu chị nọ ngủ say cứ tựa đầu vào vai mình, hay cái cách rút chân lên ngồi chồm hổm trên ghế của anh kia. Hay cái ông ngồi đằng sau chuông điện thoại cứ gióng lên câu vọng cổ “Điệp ơi mai anh lên chốn thành đô nhà xe rực rỡ, xin đừng quên bến đò ngang con sông nhỏ…”, mà bao giờ chờ xuống xề ông mới chịu bắt máy trả lời. Kiểu nói chuyện điện thoại mình thường gặp trên xe, giọng oang oang, đầu thì gật lắc, tay xua xua, hấp háy mắt, như thể người bên đầu dây kia đang ngồi trước mặt.
Thôi thì chân chất, ừ thì quê mùa… miền Tây mà, vẫn nghèo vẫn xa xôi. Đây không phải Sài Gòn Hà Nội, đây là một thế giới khác rồi. Thế giới mà người ta vẫn còn mua bắp luộc, bánh mì ở bến xe đem về xứ làm quà, trẻ con vẫn reo mừng tở mở. Xe ghé quán ăn dọc đường, nhiều người ngồi chồm hổm chờ ngoài sân không dám ghé mông ngồi vào ghế, sợ thức ăn đắt đỏ. Đi qua quầy trái cây mình thấy có người đứng đằng xa ngó, tay nắn hai túi áo bà ba mỏng, trên miệng túi cài cái kim tây. Có lần mình ngồi cạnh một bà già, cứ ngồi lận lấy mấy hạt lúa từ trong nẹp vạt áo, cắn lóc cóc.
Những người miền Tây quăn queo lam lũ thật thà này, bolero này, dầu gió này mình không bao giờ gặp trên những chuyến bay. Lý do có vẻ ngớ ngẩn, nên thấy mình ham xe đò có bạn bè cười, mình chống chế bằng một câu danh ngôn nổi tiếng, những gì thuộc về con người thì không xa lạ với tôi. Nhưng trong bụng nghĩ, thôi bà sến thì nói đại là sến cho rồi, có sao đâu…
Nguồn: vnthuquan
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)